“Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch góp vốn với công ty”.

[Góp vốn để làm dự án, nhưng dự án không được UBND tỉnh giao cho công ty làm dự án, Hội Đồng Xét Xử xác định Hợp Đồng góp vốn vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được] Bản án số 1682/2022/KDTM-ST Ngày 20 tháng 9 năm 2022 V/v “Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch góp vốn với công ty”
Trong bản án này có 2 nội dung:
1/ Chỉ định người đại diện pháp luật: Do người đại diện pháp luật của công ty nhận vốn góp đã chết nên Toà án có văn bản yêu cầu các thành viên họp để cử người đại diện theo pháp luật nhưng các bên không cử. Sau đó Toà án ra Quyết định chỉ định Người đại diện theo pháp luật.
2/ Về góp vốn và tuyên vô hiệu hợp đồng:
Theo Hội Đồng Xét Xử:
Xét giấy xác nhận số 03/XN-TL ngày 23/3/2013 Công ty T cấp cho ông V là cổ đông là không phù hợp với quy định Điều 47 Luật Doanh nghiệp năm 2014 về Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Theo tài liệu do Phòng đăng ký kinh doanh – Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cung cấp tính đến ngày 09/10/2009 thành viên của công ty T nộp Phòng đăng ký kinh doanh là những người sau: Ông Phạm Văn Đ; bà Phạm Hồng Anh Th; bà Hồng Hà T; bà Phạm Hồng Trung N; bà Hồng Mộng V chưa có văn bản mới cập nhật tên ông V vào là thành viên Công ty.

Công ty T không được Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận giao khai thác mỏ đá Suối Ngọc, vì vậy giao dịch góp vốn của ông V vào mỏ đá Suối Ngọc là có đối tượng không thể thực hiện được nên vô hiệu theo Điều 411 Bộ luật dân sự năm 2005 “Hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được”. Hợp đồng bị vô hiệu là lỗi của Công ty T, ông V không có lỗi. Vì vậy yêu cầu của nguyên đơn tuyên hủy giao dịch góp vốn là có cơ sở chấp nhận. Ông V không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xét.
Tại buổi hòa giải ngày 26/6/2018, Công ty T xác nhận có nhận 850.000.000 đồng của ông V góp vốn và đồng ý hoàn trả lại nhưng đến nay không nộp tài liệu chứng từ chứng minh đã hoàn tiền cho ông V nên Công ty T có trách nhiệm hoàn trả số tiền này cho ông V là phù hợp quy định Điều 137 Bộ luật dân sự năm 2005.
Chi tiết, Bản án 1682_chỉ định đại diện và dự án không có thật.

0931862726